Nâng cao hiệu quả công tác đầu tư tại Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam
Vì vậy, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Tổng công ty nhằm thực hiện được các nhiệm vụ chính sau đây:
- Khẳng định được năng lực quản lý và điều hành tất cả các chuyến bay dân sự và vận tải quân sự hoạt động trong hai vùng thông báo bay (FIR) nêu trên theo đúng các tiêu chuẩn của ICAO, thông qua đó tiếp tục được ICAO giao quyền quản lý, điều hành hai vùng FIR, đảm bảo được nguồn thu hàng năm cho Nhà nước và cho đơn vị;
- Đảm bảo công tác quản lý vùng trời, chủ quyền quốc gia và không phận quốc tế được ủy quyền. Đảm bảo cho công tác điều hành bay được an toàn, điều hòa, hiệu quả cho tất cả các hoạt động bay trong khu vực không phận thuộc chủ quyền quốc gia, không phận quốc tế được ICAO giao quyền quản lý, điều hành;
- Tiếp tục đổi mới thiết bị, công nghệ để thay thế các hệ thống, thiết bị đã hết niên hạn sử dụng, không đảm bảo an toàn khai thác và đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động bay ngày càng tăng cao trong nước từ đó tăng nguồn thu từ các dịch vụ quản lý bay;
- Đáp ứng sự phát triển của nghành hàng không theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặc biệt là đáp ứng gia tăng hoạt động bay và đưa các sân bay mới vào khai thác phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
- Quản lý các hoạt động bay trên vùng biển Đông, đặc biệt trong bối cảnh phải khẳng định chủ quyền của đất nước, quyền quản lý và điều hành các hoạt động bay trên vùng biển quốc tế ở khu vực này;
- Áp dụng các trang thiết bị, công nghệ hiện đại trong công tác điều hành bay theo các yêu cầu
Thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ GTVT tại buổi làm việc với Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam ngày 29 tháng 6 năm 2012 về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm 2012, Lãnh đạo Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam đã đề ra và thực hiện hàng loạt các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đầu tư.
Về mặt tổ chức: Hội đồng thành viên Tổng công ty đã ban hành Quy chế quản lý đầu tư xây dựng công trình, phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các cơ quan tham mưu, các đơn vị, các Ban QLDA trong công tác QL ĐT XDCT, trong đó Hội đồng thành viên là cấp quyết định đầu tư, Tổng giám đốc là chủ đầu tư bắt đầu từ tháng 11/2012.
Trên vai trò của Chủ đầu tư, từ tháng 11/2012, Tổng Giám đốc đã ban hành các quyết định ủy quyền và phân cấp cho các Giám đốc các đơn vị cơ sở và các Trưởng ban QLDA, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng người đứng đầu và của các cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình, đồng thời chỉ đạo quyết liệt các cơ quan tham mưu của Tổng công ty đẩy nhanh công tác thẩm định hồ sơ dự án, xử lý phát sinh, thay đổi: không được vượt quá khung thời gian thẩm định mà Nhà nước quy định. Cụ thể đối với các hồ sơ của dự án nhóm C: từ 5 đến 7 ngày, các hồ sơ dự án nhóm B: từ 10 -12 ngày, trường hợp đặc biệt trên 15 ngày phải báo cáo Tổng giám đốc. Thực tế cho thấy từ tháng 11/2012 đến nay về cơ bản không còn việc chậm trễ trong khâu thẩm định, phê duyệt hồ sơ, thủ tục đầu tư. Lãnh đạo Tổng công ty cũng đã phân công các đồng chí Phó Tổng giám đốc trực tiếp xuống tăng cường chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho các dự án lớn của Tổng công ty, hàng tháng các Ban QLDA phải báo cáo Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc về tiếp độ thi công, khắc phục triệt để tình trạng chậm tiến độ các dự án.
Về thi công các dự án trọng điểm: Chủ tịch HĐTV và Tổng Giám đốc đã trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo các dự án: Khắc phục một số tồn tại thuộc Dự án Đài KSKL cảng HKQT Nội Bài; Dự án Đài KSKL cảng HKQT Tân Sơn Nhất; Dự án Trung tâm kiểm soát không lưu Hà Nội; Dự án Trạm radar sơ cấp, thứ cấp Tân Sơn Nhất; Dự án Đài chỉ huy Cảng HK Cần Thơ, Dự án Đài chỉ huy cảng HK Phú Quốc, Cơ sở làm việc các đơn vị khu vực Gia Lâm, giải quyết ngay các vướng mắc, khó khăn.
Để đảm bảo các dự án phát huy hiệu quả đầu tư cao nhất, Tổng công ty thực hiện chiến lược đầu tư phần công trình đúng theo quy hoạch lâu dài, có tầm nhìn xa, đảm bảo thời gian sử dụng từ công trình trên 50 năm không phải mở rộng hoặc xây mới. Cụ thể là các Trung tâm kiểm soát đường dài được xây dựng có các diện tích dự phòng để khi cần thay đổi hệ thống thiết bị, công nghệ hoặc mở rộng công năng sử dụng thì không phải mở rộng hoặc xây mới. Đối với các Đài chỉ huy đều được tính toán để đảm bảo các cảng hàng không trong quá trình phát triển hết công suất trong tương lai dài vẫn không phải xây lại Đài chỉ huy do đã được tính toán kỹ lưỡng về vị trí, độ cao, điện tích phòng thiết bị, diện tích Cabin kiểm soát hoạt động bay và các công trình phù trợ khác. Hệ thống các đài dẫn đường, các trạm radar, các trạm VHF đều được xây dựng hoàn chỉnh từng bước, có kế thừa và phát triển. Thực tế từ năm 1993 đến nay đã cho thấy thời gian khai thác các hạ tầng cơ sở kỹ thuật của Tổng công ty đều vượt quá thời gian khấu hao quy định mà vẫn đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật và tiếp tục được khai thác, sử dụng.
Đối với các trang thiết bị kỹ thuật chuyên ngành, Tổng công ty chủ trương đi thẳng vào các công nghệ hiện đại, đã được kiểm chứng trên thế giới và ở khu vực, vì vậy các công nghệ, các hệ thống kỹ thuật đáp ứng được các yêu cầu khai thác, đáp ứng được nhu cầu phục vụ mật độ bay ngày càng tăng cao mà không bị lỗi thời, kéo dài thời gian phục vụ, giảm được chi phí đầu tư.
Trong quá trình triển khai các dự án, ngoài các giải pháp đẩy nhanh tiến độ, khắc phục các nhược điểm trong chậm xử lý các phát sinh, thay đổi, Tổng công ty rất chú trọng đến công tác quản lý chất lượng. Tất cả các dự án đều được các Ban QLDA triển khai quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ theo quy định của Nhà nước. Ngay từ khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật đã phải bám sát theo nhu cầu khai thác phục vụ bay trước mắt và lâu dài theo quy hoạch được duyệt. Tất cả các bước từ thiết kế hệ thống, kiểm tra nhà máy, nhập khẩu thiết bị, kiểm tra thiết bị, vật tư về đến công trường, lắp đặt, chạy thử đơn động, kết nối, chạy thử nghiệm thu …đều được các bên: Chủ đầu tư, Nhà thầu, Tư vấn tiến hành nghiệm thu, xác nhận để đảm bảo rằng đáp ứng toàn bộ các yêu cầu kỹ thuật đã đề ra.
Nhờ các giải pháp nêu trên, trong năm 2012, Tổng công ty đã hoàn thành và đưa vào khai thác 4 dự án lớn là: Đài KSKL cảng HKQT Nội Bài, Đài KSKL cảng HK Cần Thơ, Đài KSKL cảng HK Phú Quốc, Trạm radar Sơ cấp, thứ cấp Tân Sơn Nhất, trong đó Dự án Đài KSKL cảng HK Phú Quốc đã đưa vào hoạt động đúng tiến độ, đồng thời với Cảng Hàng không Phú Quốc.
Sang năm 2013, ngay từ đầu năm, Hội đồng thành viên, Ban điều hành đã lập kế hoạch làm việc cụ thể theo từng tháng, từng quý, trong đó cụ thể hóa các mục tiêu hoàn thành các dự án lớn như: Dự án Đài KSKL cảng HKQT Tân Sơn Nhất đã hoàn thành toàn bộ công tác xây dựng và hoàn thành cơ bản công tác lắp đặt thiết bị, chuẩn bị cho chạy thử, nghiệm thu để đưa vào sử dụng trong tháng 6/2013;Dự án Cơ sở làm việc của các đơn vị trong khu vực Gia Lâm cũng sẽ được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 6/2013; Dự án Trung tâm KSKL Hà Nội (ATCC Hà Nội) đang thi công đúng tiến độ và đảm bảo hoàn thành, đưa vào khai thác vào tháng 12/2014 đúng theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Mặc dù đã đạt được các kết quả cụ thể, đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư, Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam cũng đã đề ra các công tác phải tiếp tục thực hiện để đảm bảo các dự án đầu tư được thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, phát huy hiệu quả. Các công tác đang tiếp tục thực hiện bao gồm: Xây dựng và ban hành Quy chế giám sát đầu tư của Tổng công ty vào tháng 6/2013; Phối hợp với Cục HKVN thực hiện điều chỉnh Quy hoạch phát triển các hệ thống CNS/ATM đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020; Tiếp tục báo cáo và phối hợp với các cơ quan chức năng để đảm bảo nguồn vốn đầu tư để đầu tư các công trình đảm bảo hoạt động bay, nhằm đảm bảo an toàn cho các chuyến bay cũng như đảm bảo nguồn thu cho Tổng công ty và nguồn nộp ngân sách nhà nước.
Hai mươi năm kể từ khi được thành lập, công tác đầu tư của Tổng công ty đã góp phần đáng kể trong việc xây dựng được một hệ thống hạ tầng cơ sở, trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hoàn thiện làm nền tảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế mà Đảng, Nhà nước, ngành hàng không giao cho, đó là đảm bảo điều hành bay an toàn tuyệt đối cho tất cả các chuyến bay đến, đi và bay qua các vùng trời do Việt Nam quản lý, điều hành, đóng góp vào ngân sách Nhà nước hàng chục nghìn tỉ đồng.
Bài: Trịnh Như Long - Trưởng Ban Đầu tư
Các tin đã đưa
- Tình hình triển khai áp dụng PBN của Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam
- Giới thiệu Dịch vụ thông báo tự động tại khu vực sân bay phát bằng lời (ATIS) và Dịch vụ thông báo tự động tại khu vực sân bay truyền dữ liệu bằng kỹ thuật số (D-ATIS)
- Hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình của Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 - 2013
- Khánh thành Trung tâm Kiểm soát không lưu Hà Nội
- Trang thiết bị Dịch vụ thông báo tự động tại khu vực sân bay phát bằng thoại (ATIS) và Dịch vụ thông báo tự động tại khu vực sân bay truyền dữ liệu bằng kỹ thuật số (D-ATIS)