Khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường (NOSS)
Nguồn gốc hình thành NOSS
Khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường, có tên tiếng Anh là Normal Operation Safety Survey - NOSS được đưa trong trong khuyến nghị số 2/5 của Hội nghị về dẫn đường hàng không (Air Navigation Conference) lần thứ 11 của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), tổ chức tại Montreal năm 2003. Trong đó, hội nghị có đề cập tới nội dung: “ICAO bắt đầu các nghiên cứu về phát triển tài liệu hướng dẫn để giám sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường, ví dụ như chương trình Line Operation Safety Audit - LOSA dành cho các hãng hàng không và Normal Operation Safety Survey - NOSS cho các nhà cung cấp dịch vụ điều hành bay.”
Mặc dù NOSS khác với LOSA ở đối tượng áp dụng nhưng cũng có những điểm tương đồng về phương pháp, cả hai đều sử dụng khung nguyên tắc Quản lý mối đe dọa và sai sót (Threat and Error Management - TEM). NOSS được kế thừa từ LOSA và phát triển bởi đội nhóm nghiên cứu của ICAO để phù hợp với môi trường hoạt động phức tạp và có nhiều biến đổi như tại phòng điều hành bay.
Tài liệu CIR 314 AN/176 ,Threat and Error Management (TEM) in Air Traffic Control, 2008
và Doc 9910, Normal Operations Safety Survey (NOSS), 1st Edition 2008 của ICAO
Khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường là gì?
Năm 2008, ICAO ban hành tài liệu hướng dẫn đầu tiên về khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường Doc 9910, đưa ra các nguyên tắc và cách thức thực hiện. NOSS được thiết kế với phương pháp thu thập dữ liệu chủ động, bổ sung cho các nguồn thu thập dữ liệu an toàn truyền thống như báo cáo hay điều tra sự cố mang tính ứng phó. Nó cung cấp dữ liệu từ các hoạt động vận hành khai thác không có sự cố hoặc hậu quả gì về an toàn do đó không phụ thuộc vào việc phải xuất hiện các sự vụ thực tế như đối với công tác điều tra. NOSS có thể được lên lịch vào bất kỳ thời điểm nào phù hợp với tổ chức để lấy mẫu hiệu suất hệ thống quản lý an toàn trong hoạt động hàng ngày và cung cấp cái nhìn tổng quan về điểm mạnh và điểm yếu trong việc quản lý các mối đe dọa, sai sót và các trạng thái không mong muốn trong quá trình hoạt động bình thường. Dựa trên những dữ liệu đó, tổ chức có thể đưa ra các quyết định nhằm cải tiến trước khi các vấn đề về an toàn dẫn tới hậu quả không đáng có.
Dữ liệu NOSS là nguồn dữ liệu khách quan bổ sung cho các nguồn dữ liệu truyền thống của Hệ thống quản lý an toàn SMS. Do đó, NOSS được xem là một công cụ, một thành phần của SMS trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ATS tuân thủ theo yêu cầu của ICAO Phụ lục 11, mục 2.2.7.3, “c) cung cấp giám sát liên tục và đánh giá thường xuyên về mức độ an toàn đạt được”.
Mục đích của NOSS
Mục đích của việc tiến hành NOSS là để tìm ra những mối đe dọa và sai sót thường gặp thông qua góc độ của KSVKL và đưa ra cách kiểm soát hợp lý trong quá trình hoạt động bình thường. Với các thông tin phân tích được sau khi thực hiện NOSS, các đề xuất cho nhà cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay có thể được đưa ra nhằm đối phó với các mối đe dọa và sai sót mà KSVKL phải đối mặt hàng ngày (ví dụ: Thay đổi trong quy trình hoặc các chủ đề an toàn cụ thể cho các chương trình đào tạo định kỳ cho kiểm soát viên không lưu). Đợt tiến hành NOSS lần kế tiếp được sử dụng như hình thức kiểm tra lại, xem xét các phản hồi về tác động của quá trình thay đổi an toàn kể từ lần khảo sát NOSS trước đó.
Các dữ liệu quan trọng nhất cần thu thập của NOSS
Các mục tiêu dữ liệu quan trọng cần phải đạt được của NOSS bao gồm:
- Điều kiện hoạt động bình thường: Quá trình điều hành bay không xảy ra bất cứ tai nạn, sự cố hoặc vụ việc nào phải thực hiện báo cáo hay điều tra theo quy định. Điều kiện hoạt động bình thường không bao gồm những vụ việc can thiệp, tác động tới điều kiện, môi trường làm việc;
- Mối đe dọa (Threat): là một sự kiện hay một sai sót không tới từ KSVKL làm việc tại vị trí mà là từ bên ngoài, dẫn tới hậu quả làm tăng độ phức tạp của công việc, và yêu cầu phải có những biện pháp quản lý để đảm bảo biên an toàn;
- Sai sót (Error): là các hành động hay thiếu hành động của KSVKL dẫn tới việc sai lệch so với chủ đích hay mong muốn thực tế. Ba sai sót cơ bản là sai sót về kiểm soát thiết bị, sai sót về quy trình và sai sót trong giao tiếp;
- Trạng thái không mong muốn (Undesired State): là điều kiện làm việc có xuất hiện tình trạng nằm ngoài chủ đích, sai lệch so với yêu cầu, xảy ra do suy giảm biên độ an toàn. Đây có thể là giai đoạn cuối cùng trước khi xảy ra tai nạn/sự cố và phải được kiểm soát bởi KSVKL.
Phạm vi thực hiện NOSS
Phạm vi khảo sát của NOSS không phải là hành vi của từng KSVKL hay hiệu suất, năng lực của KSVKL. NOSS hướng tới việc cung cấp một bức tranh toàn cảnh về môi trường, vị trí làm việc và các mối đe dọa, sai sót có khả năng xuất hiện trong các hoạt động cụ thể; đồng thời xem xét cách chúng được quản lý và mức độ hiệu quả trong kiểm soát diễn biến xảy ra các trạng thái không mong muốn. NOSS chỉ thu thập các dữ liệu trong khoảng thời gian hoạt động bình thường, tức là không có bất cứ sự vụ mất an toàn nào hoặc có sự can thiệp từ bên ngoài.
Phạm vi thu thập dữ liệu của NOSS
Nguyên tắc thực hiện NOSS
Các nguyên tắc được đưa ra nhằm đảm bảo kết quả đem lại phù hợp với mục đích ban đầu của việc tiến hành khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường.
- Quan sát dưới góc độ của KSVKL, định nghĩa rõ ràng về tình trạng hoạt động bình thường và nguyên tắc dừng hoạt động.
- Sự hỗ trợ và đồng thuận của KSVKL và các cấp quản lý.
- Sự tham gia tự nguyện.
- Bảo mật dữ liệu, không tiết lộ thông tin cá nhân và không áp dụng các hình thức kỷ luật.
- Áp dụng quan sát có hệ thống theo khung TEM.
- Quan sát viên được huấn luyện tiêu chuẩn.
- Dữ liệu thu thập đáng tin cậy.
- Quy trình xác định dữ liệu.
- Thiết lập các mục tiêu dựa trên dữ liệu để nâng cao an toàn.
- Phàn hồi kết quả tới KSVKL.
Phương pháp thực hiện NOSS
Phương pháp thực hiện một đợt khảo sát NOSS
NOSS được thực hiện theo trình tự khép kín đảm bảo liên tục phát triển nâng cao an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường. NOSS được thực hiện qua ba giai đoạn: Chuẩn bị, Thu thập và xử lý dữ liệu, Phân tích, báo cáo. Các báo cáo của đợt khảo sát trước được sử dụng như dữ liệu tham khảo đầu vào cho khâu chuẩn bị của đợt khảo sát sau.
Mô hình một chu kỳ khảo sát cơ bản
Chu kỳ của một đợt khảo sát NOSS thường diễn ra trong 1 năm nhưng có thể việc tiến hành các hành động khắc phục kéo dài tới 2 hoặc 3 năm. Điều này phụ thuộc vào mức độ phức tạp của đối tượng được khảo sát cũng như mong muốn khi tiến hành khảo sát.
Đăng Nguyễn
Các tin đã đưa
- Khảo sát an toàn trong điều kiện hoạt động bình thường (NOSS)
- Diễn tập ứng phó khẩn nguy kỹ thuật lần đầu tiên tại Đài Kiểm soát không lưu sân bay địa phương
- VATM: Chỉ thị về việc chấp hành các quy định an toàn hàng không
- VATM: Tổ chức diễn tập khẩn nguy đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp năm 2016
- Trao danh hiệu "Mái trường Văn hóa An toàn Hàng không"